Khi Đức Phaolô VI công bố Thông điệp Humanae Vitae (HV) vào ngày 25/07/1968, ngài đã khơi lên nhiều phản ứng khác nhau, thậm chí là sự đối lập mạnh nhất từ trong lòng Giáo hội. Tuy nhiên, đọc chăm chú các tuyên bố của Đức Phaolô VI trong những năm tháng sau đó có thể đặt các nhà bình luận trên hướng suy tư của ngài. Như cha E. Hamel gợi ý, « Thông điệp HV không phải là một tấm đá nguyên khối trong sa mạc nhưng nó có một lịch sử ».

Thông điệp này ra đời đặc biệt trong bối cảnh “não trạng ngừa thai lan rộng” và “nguyên nhân là do bởi hai yếu tố quyết định này: a) một sự trình bày ý thức hệ về vấn đề dân số; b) những khó khăn thực tế của một số đôi bạn, tuy nhiên họ chỉ muốn giải quyết vấn đề bằng những tiêu chuẩn khoa học mà quên đi tính chất ưu việt của luân lý”.
Để trả lời cho sự chúc dữ của Malthus (“một người sinh ra trong một thế giới đã bị chiếm hết chỗ, không tìm thấy một chỗ trong cho bữa tiệc lớn lao của Thiên Nhiên. Chính Thiên Nhiên đã ra lệnh cho người ấy phải cút ngay đi, và đã không chậm trễ thi hành những hăm dọa ấy”), Đức Thánh Cha đã nói trong diễn văn trước Liên Hợp Quốc rằng “Quý vị phải làm cho cơm bánh nên nhiều đủ cho bữa tiệc của nhân loại; trái lại, đừng khuyến khích việc kiểm soát nhân tạo về sinh sản – điều đó rất là phi lý – để làm giảm bớt số khách dự vào bàn tiệc của sự sống”.
Đức Thánh Cha không bao giờ biểu lộ hay để cho hiểu dù là sự nghi ngờ nhỏ nhất về bản chất của học thuyết đang bàn đến. Mặt khác, vì tầm quan trọng của quyết định nằm trong trách nhiệm của mình, ngài đã cảm thấy nhu cầu suy tư dài dòng tỉ mỉ. Các kết quả của Ủy ban đã giúp Đức Phaolô VI đào sâu hơn nữa suy tư của mình và kéo dài nó suốt 2 năm. « Có lẽ chưa bao giờ trong lịch sử của Giáo Hội, một bản văn của Giáo hoàng đã được chuẩn bị cách hợp đoàn và đã chín muồi như thế » (S.E. Plourde, B. Haering).
Giáo huấn trọng tâm của Thông điệp Humanae Vitae (HV)
Sau khi trình bày những biến chuyển ngày nay – gia tăng dân số, mức sống, vị thế của người nữ trong xã hội, tiến bộ kỹ thuật – Thông điệp lưu ý đến não trạng hiện nay đối với con người thời đại mới về việc điều hòa sinh sản (số 2-3). Điều đó đòi hỏi một câu trả lời từ phía Huấn quyền của Giáo Hội: « Cố nhiên không người tín hữu nào phủ nhận quyền hạn của Giáo hội trong việc giải thích luật, điều luật ấy là luật luân lý tự nhiên…, vì lẽ luật tự nhiên biểu lộ thánh ý Chúa… » (số 4).
Chính trong phần giáo thuyết của Thông điệp mà Đức Phaolô VI đề cập đến vấn đề quan trọng về ý nghĩa của hành vi vợ chồng và những hậu quả luân lý mà nó ngụ ý. Ở số 7, ngài nhấn mạnh đến cái nhìn toàn diện về con người và về ơn gọi của nó được dùng làm nền tảng cho mọi suy tư Kitô giáo. Vấn đề sinh sản, cũng như những vấn đề liên quan đến sự sống con người, chỉ có thể giải quyết được trong một cái nhìn toàn diện về con người, nghĩa là trong sự phù hợp với luật luân lý và những nguyên tắc luân lý. Nhằm biện minh cho những phương pháp nhân tạo trong việc điều hòa sinh sản, nhiều người đã nại đến những đòi hỏi của tình yêu vợ chồng và việc « làm cha mẹ có trách nhiệm ». Chính vì thế, « cần làm rõ quan niệm đích thực về hai thực tại lớn này của đời sống hôn nhân » là tình yêu vợ chồng và trách nhiệm làm cha mẹ (số 7).
Số 10 liên quan đến trách nhiệm làm cha mẹ. « Tình yêu lứa đôi đòi hỏi vợ chồng ý thức về sứ mạng của họ ». Khi kêu gọi đến ý thức của đôi bạn, Thông điệp khích lệ họ có một phán đoán có trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa. « Chính vì thế trong lãnh vực lưu truyền sự sống, họ không có quyền tự do hành động theo sở thích, tự ý lựa chọn những phương pháp cho là chính đáng, trái lại, phải hướng hành động mình theo đúng thánh ý tạo dựng của Thiên Chúa, thánh ý đó được biểu hiện nơi chính bản chất và các hành vi của hôn nhân cũng như bằng các lời giáo huấn liên tục của Giáo Hội (HV 10, lấy lại Gaudium et Spes (GS), số 51) ». Như thế, Đức Thánh Cha nhấn mạnh, việc làm cha mẹ có trách nhiệm có nghĩa là vợ chồng phải nhìn nhận một cách hoàn toàn những bổn phận của mình đối với Thiên Chúa, đối với bản thân và đối với người khác, như là những bổn phận ấy đến từ luật luân lý khách quan, được Thiên Chúa thiết định và lương tâm ngay thẳng là người diễn tả trung thành nhất. Có như thế mới loại trừ mọi ý hướng làm theo sở thích của mình. Cùng với nguyên tắc căn bản này, Đức Phaolô VI đưa ra nhiều khía cạnh cụ thể cần phải lưu ý để có được một hành động tự do và trách nhiệm: hiểu biết về những tiến trình sinh lý học, vì những định luật nằm trong cơ phận con người[1]; làm chủ lý trí và ý chí trên những xu hướng của bản năng; lưu ý đến điều kiện thể lý, kinh tế, tâm lý và xã hội, để có được sự quyết định phù hợp đúng đắn (số 10).
Lương tâm hay ý thức của đôi bạn do đó sẽ được soi sáng bởi bản chất của hành vi vợ chồng và bởi việc giải thích mà giáo huấn của Giáo hội mang lại. Đó là những gì mà Đức Thánh Cha đã muốn diễn tả ở số 11. Trong khi làm sáng tỏ thế nào là tình yêu vợ chồng và ý nghĩa của thuật ngữ làm cha mẹ có trách nhiệm, cũng như về tương quan giữa hai việc ấy, chúng ta cần hiểu rằng nguyên tắc phán quyết tính chất hợp pháp về một phương thế là tôn trọng bản chất và mục đích của hành vi vợ chồng (số 11), đòi hỏi không bao giờ được tách rời một cách cố tình hai khía cạnh luôn đi liền với nhau: kết hợp và truyền sinh (số 12). Nhắc lại phẩm giá của những hành vi vợ chồng này (« chúng cao quý và chính đáng »), ngài cũng khẳng định rằng « đó là những hành vi hợp pháp, ngay cả trong trường hợp hai vợ chồng có thể đoán trước được là chúng sẽ không có hiệu năng sinh sản, vì những lý do ngoài ý muốn của mình: những hành vi ấy vẫn còn mục đích biểu lộ và làm cho sự liên kết của đôi vợ chồng thêm bền chặt…Tuy nhiên Giáo hội, khi nhắc nhở con người phải tuân giữ luật tự nhiên…, dạy rằng mọi hành vi hôn nhân phải hướng đến việc truyền sinh ». Trong số 11 này, Đức Phaolô VI minh nhiên quy chiếu đến giáo huấn của các vị tiền nhiệm của mình là Đức Piô XI (Casti connubii) và Đức Piô XII.
Cũng ở số 12, Đức Phaolô VI chú tâm đến các nền tảng của chuẩn mực này. Tiếp nối với Công đồng Vatican II, Đức Thánh Cha không còn gợi lại từ vựng và học thuyết về các mục đích chính yếu và thứ yếu như đã từng được làm trước Công đồng. Học thuyết « nhiều lần được trình bày bởi Huấn quyền » vẫn giữ nguyên, nhưng nó sẽ được làm phong phú bởi suy tư của Đức Phaolô VI. Ngài mang lại một sự làm sáng tỏ cho những phát biểu của GS khi tuyên bố: « Học thuyết này được xây dựng trên mối liên hệ bất khả phân ly, mà Thiên Chúa đã muốn và con người không thể tự ý hủy bỏ giữa hai ý nghĩa (significationem) của hành vi vợ chồng: kết hợp (unitatis) và sinh sản (procreationis)».
Từ ngữ mới xuất hiện và định phẩm cho hành vi vợ chồng là từ « ý nghĩa » (significationem). Hành vi vợ chồng có một cấu trúc riêng nhưng bản chất của nó có nghĩa một thực tại khách quan đối với những ai thực hiện nó. « Nó kết hợp vợ chồng cách sâu xa, làm cho họ có đủ khả năng sinh ra những đời sống mới, theo những luật được ghi khắc nơi chính bản tính (natura) của người nam và người nữ » (số 12). Đức Phaolô VI nhấn mạnh đến mối liên hệ giữa hai ý nghĩa này…Hành vi vợ chồng kết hợp và đồng thời làm cho có thể sinh sản.
Trong những đặc tính của hành vi vợ chồng, chúng ta được mời gọi khám phá kế hoạch của Thiên Chúa đồng thời vẫn nhìn nhận thân phận giới hạn của chúng ta: « Chúng ta không phải là những chủ nhân của các nguồn mạch của sự sống con người, nhưng là những thừa tác viên của kế hoạch được Thiên Chúa Tạo Hóa thiết lập…. Quả thật, cũng như con người không có trên thân xác mình nói chung một quyền lực vô hạn, thì cũng thế nó cũng không có quyền lực đó, vì một lý do đặc biệt, trên các năng lực sinh sản của mình như thế, do sự sắp đặt nội tại của chúng khơi lên sự sống, mà Thiên Chúa là nguyên lý của nó » (số 13). Ở đây, Đức Thánh Cha quy chiếu trực tiếp đến giáo huấn của Đức Gioan XXIII, người đã từng viết trong Thông điệp Mẹ và Thầy: « Sự sống con người là thánh thiên, từ nguyên thủy, nó trực tiếp mang dấu ấn hành động tạo dựng của Thiên Chúa ».
Chuyển sang những hậu quả thực tiễn, Đức Thánh Cha đặc biệt bàn đến các phương tiện điều hòa sinh sản và luân lý tính của chúng. Trong việc nại đến các nhịp tự nhiên, ngài thấy một khả năng cho đôi bạn thực thi một trách nhiệm làm cha mẹ (paternité responsable)[2]. Ở đây, Đức Thánh Cha xác định lại tính chất bất hợp pháp của việc ngừa thai và phá thai: Bất cứ một động tác trực tiếp nào nhằm ngăn chặn tiến trình thụ thai hay phá thai, hay làm tuyệt sản, vĩnh viễn cũng như tạm thời, hay ngừa thai đều luôn bất hợp pháp. Nghĩa là « bất cứ động tác nào có mục đích, hay dùng làm phương tiện để ngăn chận việc sinh sản, hoặc trước khi hoặc đang khi làm động tác hôn nhân, hoặc làm trở ngại việc diễn tiến tự nhiên của động tác ấy » (số 14). Ở đây cũng không thể áp dụng nguyên tắc « chấp nhận một sự xấu nhỏ hơn » cũng như « nguyên tắc toàn thể », bởi vì đôi lúc có thể coi là hợp pháp việc chấp nhận « một sự xấu luân lý nhỏ để tránh một tai hại lớn hoặc để thực hiện một việc tốt đẹp », thì không bao giờ được phép – cho dù bởi lý do trầm trọng – làm « một việc xấu để đạt tới một sự thiện » (số 14).
Bên cạnh không chấp nhận việc ngừa thai và phá thai, Thông điệp nhắc đến tính chất hợp pháp của việc sử dụng những thời gian không kết đậu nếu nhằm thực hiện việc làm cha mẹ có trách nhiệm (số 16). Giữa phương cách này và phương thế ngừa thai có một sự khác biệt cốt yếu về đối tượng của hành động (số 16). Trong trường hợp ngừa thai, họ chủ ý cản trở một diễn biến của tự nhiên. Trái lại, trong khi sử dụng thời gian không kết đậu, vợ chồng không thực hiện hành động ấy. Lý do là bởi vì thời gian không kết đậu nằm trong trật tự tạo dựng của Thiên Chúa, thuộc luật tự nhiên. Đôi bạn nại đến thời gian này, trong ý thức làm cha mẹ có trách nhiệm với các lý do khác nhau (sức khỏe người mẹ, vấn đề kinh tế….), nhưng vẫn ý thức rằng « luân lý tính của hành động không chỉ lệ thuộc vào ý hướng chân thành và việc cân nhắc các lý do, nhưng phải được thẩm định theo những tiêu chuẩn khách quan, được rút ra từ chính bản tính của nhân vị và các các hành vi nơi nhân vị » (GS số 51, Familiaris Consortio số 32; HV số 10: « Chính vì thế nên trong lãnh vực lưu truyền sự sống, họ không có quyền tự do hành động theo sở thích, tự ý lựa chọn những phương pháp cho là chính đáng, trái lại, phải hướng hành động mình theo đúng thánh ý tạo dựng của Thiên Chúa, thánh ý đó được biểu hiện bằng chính bản chất và các hành vi của hôn nhân cũng như bằng các lời giáo huấn liên tục của Giáo hội »). Họ nại đến thời gian không kết đậu không bao giờ với ý muốn ngừa thai loại trừ sự sống, nhưng sẵn sàng đón nhận một sự sống mới nếu « vỡ kế hoạch ».
Tầm quan trọng và ý nghĩa của Humanae vitae
Giáo huấn của HV chứa đựng những nội dung chính yếu trong những Huấn quyền trước đây, mà bây giờ chỉ xác nhận lại một cách long trọng. Làm như thế Đức Phaolô VI đã đối đầu một vấn đề quan trọng khác: đó là lập trường của Giáo hội đối với đường hướng nguy hiểm của « nền luân lý mới ».
Thông điệp HV tái xác nhận những nguyên tắc luân lý trường tồn. Sự bất đồng và chống đối mà HV phải chịu là do việc Thông điệp từ chối những yêu sách của nền luân lý mới. HV không chỉ mang lại sự sáng tỏ về « một điểm đặc biệt của luân lý, nhưng còn là một câu trả lời có thế giá bảo vệ như một thành trì không thể sụp đổ và cổ súy tình yêu đích thực của vợ chồng (x. HV, 9) ». Đứng trước một não trạng duy vật gây nên một sự nhượng bộ trong những nguyên tắc luân lý cũng như việc một số nhà thần học bắt đầu bảo vệ những khái niệm ngày càng lệch lạc, HV đã đem lại một lập trường rõ ràng và chắc chắn. Đối diện với những lầm lẫn của cái gọi là « thần học chiều ngang », Thông điệp đã « có một cái nhìn và phương pháp thần học, Kitô học và Giáo hội học, trong nguyên tắc cao cả và phổ quát về « celsitudo vocationis fidelium in Christo » (« vẻ cao đẹp của ơn gọi tín hữu trong Chúa Kitô »), mà chính Công đồng chung trong Sắc lệnh Optatam totius, số 16, đã đưa ra như mẫu lý tưởng cho sự hoàn thiện của nền thần học luân lý…».
Thông điệp còn nói về sự tùy thuộc của lương tâm vào trật tự luân lý khách quan, với những từ ngữ đã được Huấn quyền chỉ dạy (số 19); lặp lại những mối tương quan giữa tình yêu vợ chồng và việc truyền sinh (số 7-13) và nhắc nhở rằng một thái độ mục vụ đúng đắn không thể « làm giảm bớt giáo lý » mà có thể gọi là hợp pháp được (số 29). Nhưng linh mục, là người cha và là vị bác sĩ của tâm hồn…, được mời gọi sử dụng những phương thế tốt lành không làm cho các linh hồn phải xa lánh, bị bỏ rơi.
Việc tái khẳng định ấy còn mang tầm quan trọng đặc biệt bởi vì được đặt nền tảng trên chủ nghĩa nhân vị Kitô giáo của Công đồng Vatican II và đồng thời chối bỏ chủ nghĩa ngụy nhân vị của nền luân lý mới.
Tính cách bó buộc lương tâm trong số 14 của HV
Việc loại bỏ những tham vọng của nền luân lý mới đã lôi kéo một loạt những quan điểm chống đối kịch liệt đối với Thông điệp mà chưa một tài liệu nào của Huấn quyền phải chịu như thế, đặc biệt liên quan đến điểm then chốt nhất là vấn đề về sự xấu tự nội và việc sử dụng những phương pháp ngừa thai nhân tạo. Nền luân lý mới đưa đến cái nhìn về lương tâm như là quyền cá nhân có thể không vâng theo quy luật của Huấn quyền nếu trong trường hợp cá nhân ấy nhận xét một cách xác tín.
HV trái lại khẳng định tính chất ràng buộc trong lương tâm ngay cả trong lãnh vực luân lý mà chính Đức Giáo Hoàng mong muốn, đặc biệt trong số 14: « Căn cứ vào những điểm cốt yếu trong quan niệm của Công giáo cũng như của con người về vấn đề hôn nhân, Ta nhận thấy cần phải tuyên bố một lần nữa là: không thể nào chấp nhận – lý do vì việc đó bất hợp pháp – việc điều hòa sinh sản bằng cách trực tiếp ngăn chặn sự diễn biến đã khởi sự của một mầm sống, và nhất là việc cố ý phá thai, dù với lý do y tế cũng vậy ».
Tính chất ràng buộc lương tâm này đã được nhắn nhủ cho các linh mục cách đặc biệt: « Nhiệm vụ đầu tiên của anh em, nhất là những người phụ trách giảng dạy khoa thần học luân lý, là thẳng thắn trình bày một cách đầy đủ giáo huấn của Giáo hội về hôn nhân. Trong khi thi hành giáo vụ, anh em là những người tiên phong nêu gương chứng tỏ mình hoàn toàn chấp nhận, trong tâm trí cũng như bề ngoài, lời chỉ dẫn của Huấn quyền Giáo hội » (số 28). Trong bài giới thiệu Thông điệp HV, ĐHY Wojtyla và các nhà thần học luân lý ở Cracovi đã nêu rõ hơn tính chất ràng buộc này: « Các đôi vợ chồng cần phải biền biệt những bổn phận cụ thể về ơn gọi của mình trong tiếng nói của một lương tâm đã được huấn luyện kỹ càng. Tuy nhiên, lương tâm không đặt định những quy luật luân lý, chỉ cắt nghĩa và áp dụng những quy luật ấy vào những trường hợp cụ thể của cuộc sống. Đằng sau tiếng nói của lương tâm còn có quyền bính của chính Thiên Chúa và những lề luật mà Ngài đã đặt định ». « Lề luật này đã được giáo huấn của Giáo hội định nghĩa và truyền dạy một cách tỉ mỉ trong Thông điệp HV. Do đó, sau khi ban hành tài liệu này, thật khó nói đối với những người Công giáo về sự vô tri vô tội hay về sự lầm lỗi với ý ngay lành ». Việc lên án ngừa thai và cả những phương pháp nhân tạo bây giờ trở thành một giáo huấn không thể sai lầm của Huấn quyền thông thường và phổ quát. Dịp kỷ niệm 20 năm Thông điệp HV, trong một diễn văn trước Đại hội quốc tế về Thần học luân lý, Đức Gioan-Phaolô II đã muốn lưu ý« về những kết quả đáng khích lệ đã đạt được nhờ nhiều học giả nghiên cứu” trong những năm cuối cùng, nhờ đó có thể « đưa ra ánh sáng sự phong phú của chân lý, và còn hơn thế nữa giá trị rạng ngời và có tính ngôn sứ trong Thông điệp của Đức Phaolô VI, mà ngày này được nhiều người thuộc những nền văn hóa khác nhau quan tâm đến ».

Tông huấn Familiaris Consortio tiếp tục và hoàn thiện giáo huấn của Humane vitae
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ký Tông huấn FC vào ngày 22.11.1981 và đề nghị nó cho mọi người như là chứng tá của sự phục vụ của Giáo hội đối với hôn nhân và gia đình. Trả lời cho những người nại đến số đông, Tông huấn FC cho thấy sức mạnh của Giáo hội được bén rễ sâu trong sự hiếu biết của mình và trong lòng yêu mến đối với sự thật. Tông huấn viết: “Theo chân Chúa Kitô, Giáo hội đi tìm chân lý, mà chân lý không phải bao giờ cũng trùng hợp với quan niệm của số đông. Giáo hội nghe theo lương tâm chứ không nghe theo quyền lực” (FC, số 5). Chính vì thế, Tông huấn mời gọi giáo dục lương tâm con người, vì nó “làm cho mỗi người có khả năng phán đoán và nhận ra được những phương tiện thích hợp để mình tự thực hiện theo đúng sự thật nguyên thủy của mình, việc giáo dục lương tâm ấy trở nên một đòi hỏi hàng đầu không thể chối cãi” (FC, số 8). Thông điệp cũng ý thức về những khó khăn trong việc áp dụng giáo lý của Giáo hội cách trọn vẹn, vì thế nó nhắc đến luật tiệm tiến như giải pháp thực tế và thương xót. Luật tiệm tiến mà FC trình bày khác với sự tiệm tiến của lề luật (xem các số 9 và 24), là cách thế diễn tả về khoa sư phạm mà Thiên Chúa đã dùng trong việc dẫn đưa dân Ngài cũng như trong hành trình của các Tông đồ bước theo Chúa Kitô. Nghĩa là diễn tả tính cách lịch sử và thực tế trong đó ơn sủng tăng trưởng trong đời sống của con người và của xã hội, trải qua một “tiến trình năng động được phát triển, từ từ tiến tới trước, nhờ biết dần dần đem các ơn sủng của Thiên Chúa và những đòi hỏi của tình yêu quyết liệt và tuyệt đối của Ngài hội nhập trong đời sống bản thân và xã hội của con người”; và vì thế “cần phải đi qua một tiến trình sự phạm để các tín hữu, các gia đình và các dân tộc và ngay cả nền văn minh có thể từ những gì họ đã nhận được nơi mầu nhiệm Chúa Kitô, được kiên trì dẫn dắt đi xa hơn, đến chỗ có được một ý thức phong phú hơn và đón nhận mầu nhiệm ấy trọn vẹn hơn đối với Huấn quyền này trong đời sống của họ” (số 9).
Trích dẫn GS số 50, Tông huấn FC viết rằng « theo kế hoạch của Thiên Chúa, hôn nhân là nền tảng cho một cộng đoàn rộng lớn hơn, tức là gia đình, vì chính thể chế hôn nhân và tình yêu vợ chồng đều quy hướng đến việc truyền sinh và giáo dục con cái, trong đó chúng tìm thấy sự hoàn thành của mình”. Chính vì lý do ấy mà việc ngừa thai xuất hiện như là sự chối bỏ chính sự thật về tình yêu hôn nhân như thực tại nhân bản: « Như thế, thay vì là cách biểu lộ tự nhiên diễn tả được sự trao hiến trọn vẹn cho nhau giữa vợ chồng, việc ngừa thai là một kiểu biểu lộ mâu thuẫn ngược hẳn lại, theo đó không còn là sự tự hiến cho người kia một cách trọn vẹn; từ đó không những có sự chủ tâm khước từ không chịu mở ngỏ cho sự sống, mà còn làm sai lệch sự thật bên trong của tình yêu vợ chồng, được mời gọi phải là một sự trao ban toàn thể ngôi vị » (FC, 32).
Phục vụ sự sống qua việc truyền sinh
Vì việc phục vụ sự sống là bổn phận căn bản, nên việc mở đường cho sự sống trở thành điều kiện của tình yêu vợ chồng chân thực và là dấu chỉ của tính chân thực ấy.
Khi đề cập vấn đề sinh sản, FC khẳng định rằng « nó là hoa trái (fructus) và là dấu chỉ (signum) của tình yêu vợ chồng, là lời chứng sống động cho sự trao hiến trọn vẹn cho nhau giữa đôi bạn » (số 28). Quả thế, nó chỉ là thực sự hoa trái và dấu chỉ khi thể hiện việc trao hiến bản thân trọn vẹn này. Nó không chỉ là hoa trái và dấu chỉ « sinh học » của sự kết hợp mà thôi, nhưng của chính tình yêu đích thực. Việc sinh sản do đó phải mang lấy những đặc tính luân lý. « Sự phong nhiêu của tình yêu vợ chồng không được giản lược vào chỉ việc sinh con cái, ngay cả khi việc này được hiểu theo nghĩa hết sức nhân bản của nó. Nó được mở rộng và làm cho phong phú bằng tất cả hoa trái của đời sống luân lý, thiêng liêng và siêu nhiên mà người cha và người mẹ đều được mời gọi trao ban cho con cái họ và, xuyên qua chúng, cho Giáo hội và cho thế giới » (số 28).
Việc kết hợp và sinh sản không được tách rời. Tông huấn dạy: « Không thể có sự mâu thuẫn thật sự giữa luật Thiên Chúa về việc truyền sinh với luật Thiên Chúa đòi phải tạo thuận lợi cho một tình yêu vợ chồng đích thực » (số 33).
Trong viễn cảnh này, suy tư thần học được mời gọi lưu tâm đến sự khác biệt nhân chủng học và luân lý mà việc phân biệt giữa ngừa thai và việc nại đến các nhịp độ chu kỳ. Số 32 tiếp cận tính dục con người « như là giá trị và sự dấn thân của toàn thể nhân vị, được tạo dựng có nam có nữ, theo hình ảnh Thiên Chúa ». Quy chiếu đến GS số 51, Tông huấn cho thấy: « Luân lý tính của hành động không chỉ lệ thuộc vào ý hướng chân thành và việc cân nhắc các lý do, nhưng phải được thẩm định theo những tiêu chuẩn khách quan, được rút ra từ chính bản tính của nhân vị và các các hành vi nơi nhân vị, những tiêu chuẩn vốn tôn trọng, trong một khung cảnh tình yêu đích thực, ý nghĩa toàn diện của sự trao hiến hỗ tương và của sự sinh sản xứng tầm con người »[3]. Tông huấn cũng dựa vào những khẳng định của HV 7, 12 và 14 liên quan đến « mối liên hệ bất khả phân ly, mà Thiên Chúa đã muốn và con người không thể tự ý hủy bỏ, giữa hai ý nghĩa của hành vi vợ chồng: kết hợp và sinh sản » (HV 12). « Khi đôi bạn bằng cách dùng các phương thế chống thụ thai, tách rời hai ý nghĩa mà Thiên Chúa đã ghi khắc trong hữu thể của người nam và người nữ cũng như trong sự năng động hiệp thông tính dục của họ, thì họ đã coi mình là « trọng tài » của kế hoạch của Thiên Chúa, đó là « thao túng » và hạ giá tính dục con người và cùng với tính dục hạ giá cả ngôi vị riêng của họ và của phối ngẫu của họ vì làm suy thoái giá trị của việc trao hiến ‘trọn vẹn’ cho nhau ». Việc ngừa thai đi ngược lại với sự trao hiến trọn vẹn này, không chỉ « không mở cửa cho sự sống », mà còn « làm sai lệch sự thật nội tại của tình yêu vợ chồng ». Vấn đề ở đây là nắm bắt và đào sâu « sự khác biệt nhân chủng và đồng thời luân lý đang tồn tại giữa việc ngừa thai và việc nại đến các (tiết dục) nhịp định kỳ: đó là một sự khác biệt còn quan trọng và sâu xa hơn người ta tưởng, và xét cho cùng, nó bao hàm hai quan niệm về con người và về tính dục con người, bất khả giảm thiểu với nhau » (số 32)[4]. Việc chọn theo nhịp tự nhiên ở đây bao hàm « sự chấp nhận thời gian của nhân vị ở đây là chu kỳ của người nữ ». Chấp nhận « sự đối thoại », « sự kính trọng lẫn nhau », « trách nhiệm chung » và « sự tự chủ ». Như thế, quan niệm về tính dục được bảo vệ trong FC là một quan niệm về tính dục « được tôn trọng và đề cao trong chiều kích nhân bản thực sự và trọn vẹn của nó », được gắn liền với nhân vị và « không bao giờ được sử dụng như một đồ vật ». Trong bối cảnh này, đức khiết tịnh Kitô giáo « không có nghĩa là phủ nhận hay miệt thị tính dục con người, nhưng đúng hơn nó là một năng lực tinh thần giúp bảo vệ tình yêu khỏi những nguy hiểm của sự ích kỷ và của tính bạo động, và đưa tình yêu đến mức thể hiện trọn vẹn » (số 33)[5].
——————————-
Tý Linh
(dựa theo môn học “Luân lý Hôn nhân và Gia đình” của cha Luc Crépy, hiện là Giám mục giáo phận Versailles, Pháp, và tham khảo thêm cuốn “Hôn nhân và gia đình trong các tài liệu của Huấn quyền” của Ramon Garcia de Haro)
—————————————————–
[1] Như thế, chúng ta nhận thấy Thông điệp đã khẳng định rằng « những định luật sinh lý » đưa đến việc truyền sinh nằm ngay « trong bản tính con người ». Đây là một khẳng định mang tính chất nhân bản mạnh mẽ và phù hợp hơn cả, không bao giờ coi thân xác con người như là một đồ vật, nhưng như một thực thể nhân linh. Không phải là muốn biến những quy luật sinh lý thay cho quy luật luân lý, nhưng cần biết phán đoán đâu là những giới hạn mà con người có được trong việc làm chủ trên những quy luật ấy khi liên quan đến thân xác mình, chính vì nó không phải là đồ vật nhưng là thành phần của con người toàn diện.
[2] « Khi chỉ ra sự khác biệt nhân chủng học nền tảng giữa việc ngừa thai và việc nại đến nhịp thời gian của chu kỳ nữ giới, cái mà Đức Bênêđictô XVI gọi là « sự tôn trọng thời gian của người yêu », thông điệp Humanae Vitae đụng chạm mạnh mẽ đến khuôn mẫu đảo ngược tính dục như là sự thụ hưởng. Những người chủ trương cuộc cách mạng tính dục sẽ không bỏ qua cho Đức Phaolô VI vì đã cản trở kế hoạch của họ » (Pierre-Olivier Arduin). Xem thêm diễn văn của Đức Bênêđictô XVI dịp kỷ niệm 40 thông điệp Humanae Vitae.
[3] FC không quên, như một số người đã nghĩ, về yếu tố nội tại và ngoại tại của tính chất luân lý, nghĩa là cùng với đối tượng còn có ý hướng và những động lực hay lý do làm cho ý hướng ấy trở nên ngay thẳng; những yếu tố này cùng được nhắc nhở chung với những tiêu chuẩn khách quan về hành động được thực hiện. Xem thêm Thông điệp Veritatis Splendor, đặc biệt chương II, trong đó nền luân lý mới là đối tượng của sự phê bình của Huấn quyền.
[4] FC khẳng định rằng, trong việc ngừa thai, vợ chồng tự xem mình như là trọng tài cho kế hoạch của Thiên Chúa; trong khi sử dụng những thời kỳ không kết đậu, họ thi hành như những thừa tác viên. Ở đây, cũng cần phải hiểu việc điều hòa sinh sản không phải chỉ là một vấn đề thuộc lãnh vực sinh học, nhưng còn là luân lý. Việc điều hòa về phương diện luân lý còn được gọi là « điều hòa tự nhiên về sinh sản », điều đó có thể được cắt nghĩa là phù hợp với luật tự nhiên, tức phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa trên con người.
[5] Ở đây, việc ngừa thai là một việc làm mất trật tự luân lý chống lại đức khiết tịnh, chỉ có thể do chính vợ chồng vấp phạm : nghĩa là tùy thuộc vào việc sử dụng hôn nhân, được thực hiện trong khi làm mất đi khả năng truyền sinh của hành vi vợ chồng, trong khi chối bỏ việc cộng tác với Thiên Chúa vào ân huệ sự sống cho một con người mới, cũng như ý nghĩa của sự kết hợp vợ chồng, và trong thực tế thu hẹp hành động trao hiến hỗ tương thành một hành động thủ dâm cho nhau. Bởi vậy, khi nói đến hành vi ngừa thai giữa những người không kết hợp trong hôn nhân, thì không phải chỉ là tội ngừa thai, nhưng tùy theo từng trường hợp, đó là ngoại tình hay là dâm dục…Tất cả những điều ấy là những tội chống lại sự khiết tịnh còn hơn là tội ngừa thai của vợ chồng, và việc sử dụng các phương pháp ngừa thai không làm giảm bớt sự xấu, trái lại còn tăng thêm tội, nghĩa là thêm sự xấu này trên sự xấu của hành vi ấy, chẳng hạn như ngoại tình hay dâm dục… Ở đây, một câu hỏi được đặt ra là hành vi ngừa thai tự nó có một ý hướng giết người không? Chắc chắn là không. Tất nhiên, nhiều người nữ trong việc sử dụng một phương cách chống thụ thai, nhất là khi có những lý do chính đáng…, họ không có một chút ý hướng giết người nào cả, hơn thế nữa họ còn sẵn sàng đón nhận với cả tình yêu, hay ít ra là phải chấp nhận, đứa con được thụ thai cho dù họ đã ngăn ngừa. Tuy nhiên, đừng quên rằng não trạng ngừa thai…thường dẫn đến việc phá thai (Ramon Garcia de Haro).
Nguồn: https://xuanbichvietnam.net/
